Một nhóm trẻ mồ côi xứ Phi Châu tham gia chuyến du lịch “Lịch sử và tôn giáo”, đến một nước thuộc vùng châu Á. Tại một điểm tham quan, một em hỏi hướng dẫn viên du lịch:
_ Cung điện này tên gì?
Hướng dẫn viên phì cười:
_ Đây không phải cung điện, mà là chùa.
_ “Chùa” thuộc tôn giáo nào?
_ Phật giáo.
_ Bức tượng phanh ngực, phanh bụng, lòi rốn ở giữa sân là ai?
_ Phật Di Lặc.
_ Tượng bên hông?
_ Phật bà Quan Âm.
_ Tượng ngồi bên phải?
_ Phật Ngàn Mắt Ngàn Tay.
_ Ở bên trái?
_ Phật Dược Sư
_ Còn phía sau?
_ Phật Tỳ Lô Giá Na
_ Ba tượng lớn trong này?
_ Phật A Di Đà Tam Thế.
_ Sao có cả hai con khỉ cầm gậy?
_ Ấy chết, đó là hầu vương Tôn Hành Giả tức Đấu Chiến Thắng Phật và tổ Bồ Đề Đạt Ma, giống vậy thôi chứ không phải. Mô Phật, chớ có vô phân biệt!
Cả đám trẻ nhíu mày. Một em hỏi lớn:
_ Nghĩa là sao? Nếu phải phân biệt khỉ là khỉ, Tổ là Tổ; thì cũng phải phân biệt Phật là Phật, khỉ là khỉ chứ lẫn lộn lung tung làm sao được? Chẳng lẽ những người ở đây cũng muốn bọn em xếp trâu, bò, chó, mèo ngang hàng với họ ư? Chẳng lẽ họ cũng thờ cúng heo, lừa, dê, ngựa ngang hàng với ông bà, cha mẹ của họ hay sao? Cao siêu gì như vậy?
Lũ trẻ kháo nhau:
_ Siêu điên rồ thì có!
_ Họ bị phù thuỷ lường gạt rồi!
_ Xỏ mũi chứ!
Hướng dẫn viên im lặng gãi đầu gãi tai. Nhiều em trề môi lắc đầu tỏ vẻ chán nản. Em trưởng đoàn như chợt nhớ ra điều gì, vội hỏi giọng nghiêm trang:
_ Thế, vị nào sáng lập ra đạo Phật?
Hướng dẫn viên réo to như thoát nợ:
_ Phật Thích Ca Mâu Ni. Những người ở đây tự nhận mình là “Phật tử” và luôn miệng “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, có nghĩa họ đều là con của Ngài.
Một giọng khác chen ngang:
_ Tượng của Ngài đâu?
Hướng dẫn viên dáo dác nhìn quanh rồi lắc đầu:
_ Không thấy! Có lẽ do Phật Thích Ca vốn chán ghét cung vàng điện ngọc nên người ta đã không đưa Ngài vào đây.
Nghe vậy, bọn trẻ bỗng nhiên oà khóc nức nở. Hướng dẫn viên hoảng sợ:
_ Tại sao các em khóc?
_ Bọn em thấy tội nghiệp!
Hướng dẫn viên ngẹn ngào:
_ Tội nghiệp ai và vì sao?
Đám trẻ cùng chỉ vào trong, khóc rống:
_ Tội nghiệp những người ở đây, cũng như bọn em, có cha nhưng không biết mặt mũi cha mình thế nào. Đáng thương quá! Hu… hu… hu…
Theo Buddhism Magazine
________________
Ghi chú: Hình tượng ‘Bụt Ngàn Mắt Ngàn Tay’ của Đại Thừa giáo chính là hung thần Aj-jun của Bà-la-môn giáo, đã được các luận sư Bà-la-môn gián điệp cải trang đưa vào trong Phật giáo. Thật vậy, trong Chuyện Tiền thân Bhùridatta, số 543, Bà-la-môn Kànàrittha đã nêu rõ:
“119. Ku-ve-ra, So-ma, các thần,
Dhà-tà, Vi-dha, cùng trời, trăng,
Bao phen đã cử hành đàn tế,
Ban các La-môn mọi phước ân.
120. Aj-jun vĩ đại giáng tai ương,
Chi chít ngàn tay mọc khắp thân;
Mỗi cặp tay cầm cung dọa nạt,
Dâng thần Lửa lễ vật đầy tràn!”
Rõ ràng các luận sư Bà-la-môn gián điệp đã cải trang hung thần Aj-jun (thấp kém hơn cả thần lửa) của Bà-la-môn giáo thành Bụt Ngàn Tay Ngàn Mắt cho Đại Thừa để xỏ mũi những ai tin theo.
Cho nên rằng thì là các Phật tử Đại Thừa càng khoe khoang hình tượng ‘Bụt Ngàn Mắt Ngàn Tay’ của mình bao nhiêu, các ông Bà-la-môn hiện nay càng ngấm ngầm khinh chê họ bấy nhiêu. Hèn chi, qua bao đời những ông Bà-la-môn vẫn coi thường Phật giáo biến thái là phải!
Còn vì sao các gián điệp Bà-la-môn lại dựng thêm hình tượng Bụt bà Quan Âm trong Đại Thừa giáo? Vì trong Chánh Kinh Nikaya, Đức PhậtThích Ca đã dạy rõ một vị có chánh kiến là: “Vị ấy biết rõ rằng: "Sự kiện này không có xảy ra, không có hiện hữu: Khi một nữ nhân có thể thành A-La-Hán, Chánh Ðẳng Giác. Sự kiện như vậy không có xảy ra". Và vị ấy biết rõ rằng: Sự kiện này có xảy ra: Khi một nam nhân có thể thành một A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Sự kiện như vậy có xảy ra” (MN 115)
A La Hán Chánh Đẳng Giác chính là Đức Phật độc tôn. Vì thế những ai tin theo các Bà-la-môn gián điệp thừa nhận hình tượng “Phật bà” hoặc “Phật mẫu” là gánh lấy tà kiến mà không biết.
Bụt A-di-đà xuất hiện tại Trung Hoa hàng trăm năm sau khi Phật Thích Ca nhập diệt với 48 lời nguyện phi nhân quả, phi công lý: chỉ cần niệm danh Bụt dù kẻ diệt chủng, loạn luân dâm ác… cũng được cứu rỗi, còn nạn nhân lương thiện không niệm A-di-đà lại bị bỏ lờ sống chết mặc bay.
Kinh A-di-đà và luận ca ngợi A-di-đà do ai giới thiệu? Do Cưu Ma La Thập sống sau Phật cả chục thập kỷ. Chính Cưu Ma La Thập đã ngang nhiên phá giới nhận và loạn dâm với cả mười cung nữ từ vua Dao Tần ban cho. Tin tưởng theo một giáo lý phi lý trí và từ một tà sư như thế, quả thật là cuồng tín si mê.
Còn hình tượng ‘Bụt Di Lặc’ thế nào? Đây cũng là sản phẩm do các Bà-la-môn tung vào Phật giáo. Những ai không nhận thức sự thật này hãy thử hình dung một giáo đoàn sẽ như thế nào nếu tất cả từ Pháp chủ, Hoà thượng, Tăng Ni, sadi, sadini, nam nữ cư sĩ đều nhất loạt noi theo gương ông giáo chủ Di Lặc vô tư phanh ngực, phanh bụng, lòi rốn trước mắt bàn dân thiên hạ?
Một đứa con nít tám tuổi chỉ cần tưởng tượng một chút thôi cũng đủ biết cái Pháp hội mùa xuân Long Hoa của Đại Thừa giáo hấp dẫn, mê ly và trang nghiêm đến như thế nào!
Cần nói rõ thêm, trong kinh văn gốc (DN26) có nói đến Đức Phật Mettayya tương, thế nhưng trong hình dạng dung tục phồn thực như Di Lặc thì chỉ có con nít ba tuổi mới không biết đó là ý đồ nham hiểm của các Bà-la-môn gián điệp vẽ ra nhằm bôi nhọ, dung tục hóa hình ảnh Chư Phật. Ai tin theo đây cũng đồng nghĩa phỉ báng danh hiệu Phật, huỷ báng hình ảnh thiêng liêng của Chư Phật.
Thêm nữa, trong Kinh - Luật gốc, trong vòng sanh tử luân hồi vô thỉ vô chung, trước sau như một, chỉ có sáu Đức Phật quá khứ và một Đức Phật Thích Ca của kiếp hiện tại. Thế nhưng chỉ vài trăm năm sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, các tổ sư gián điệp đã tầm thường hóa danh hiệu Phật bằng cách vẽ thêm cho Đại thừa giáo hàng chục ngàn vị Phật (kinh Vạn Phật), chúng sanh nào cũng có thể thành Phật vì ‘chúng sanh đồng Phật tánh’ (kinh Pháp Hoa) v.v…
Thậm chí kẻ vẽ ra “kinh 42 Chương” cho Đại thừa giáo còn ma mãnh phỉ báng danh vị Phật và xỏ mũi những ai tin theo khi phán rõ rành rành “Cho một ngàn ức vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn” (Chương thứ 11)???
Thế đấy, ‘vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng’ là ai, trong khi các ‘vị’ vô tâm vô tư ngoài đồng gặm cỏ có vị nào có niệm, có trụ, có tu, có chứng? Quái quỷ đến thế thì thôi! Khốn thay kinh 42 Chương của Đại thừa đã được vô tư truyền ‘dại’ qua hàng bao thế kỷ không một ai thắc mắc, không một lời cảnh báo.
Rõ ràng sự cả tin ngây thơ cũng là đồng bạn cho ma lừa phỉnh, quỷ gạt lừa xuống chín tầng địa ngục. Ai đó đã nói rất đúng ‘tôn giáo là ma túy của nhân loại’. Ở đây, Đại thừa giáo cũng là ma túy của những Đại thừa sinh! Các đệ tử Đại thừa tham ‘xe to, pháp lớn’ đợi đến khi nào mới chịu mở mắt ra đây?
Chính vì thế, trong kinh Nguyên thủy Tương Ưng, Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng:
“Ví như, này Kassapa, vàng (thật) không biến mất khi nào vàng giả chưa hiện ra ở đời. Và này Kassapa, khi nào vàng giả hiện ra ở đời, thời vàng (thật) biến mất.
Cũng vậy, này Kassapa, diệu pháp không biến mất, khi nào tượng pháp chưa hiện ra ở đời. Và này Kassapa, khi nào tượng pháp hiện ra ở đời, thời diệu pháp biến mất.
Này Kassapa, địa giới không làm Diệu pháp biến mất, thủy giới không làm Diệu pháp biến mất, hỏa giới không làm Diệu pháp biến mất, phong giới không làm Diệu pháp biến mất.
Ở đây, khi nào các người ngu có mặt, chính họ làm Diệu pháp biến mất” (S.ii,223).
Thật vậy, Phật thật không biến mất khi nào Bụt giả chưa hiện ra ở đời; và khi nào Bụt giả hiện ra ở đời, thời Phật (thật) biến mất.
Vì sao? Vì chỉ có ác ngu si mới lộng giả thành chân, mới dựng tà phá chánh; và cũng chỉ có thậm ngu si mới nghe sao tin vậy, không biết phân biệt đúng sai, thật giả, chánh tà. Hai thứ ngu này hợp lại; Diệu Pháp của bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác làm sao còn được!
Đã đến lúc si mê phải trả về cho si mê, vàng thật phải trả về cho Đạo Phật!
-----------------------
Xem thêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét